watch sexy videos at nza-vids!
Clan10x.Wap.Sh 
Wapsite Hàng Đầu Việt Nam

Chiều ca dao
Cơn mưa chiều đã tạnh từ lâu
Trời đằm thắm như chưa hề
mưa nắng
Để em bảo lũ chuồn chuồn cánh
mỏng
Bay là đà vừa đủ để trời râm
Ngủ đi anh
Cho em lùa tay vào mái tóc
xanh
Như ngọn gió lùa qua cành mơn
trớn
Gió thì lạnh mà tay em thì ấm
Ngủ cho ngoan ơi những nhánh
tóc mềm
Cứ tựa mình vào cánh tay em
Sợi tóc bạc của đêm dài thao
thức
Cho em nghe nửa cuộc đời
đắng ngọt
Đang hòa dần vào cả cuộc đời
em
Ngủ đi anh
Hãy ngủ thật bình yên
Đừng trăn trở mà làm đau cả
mộng
Và vầng trán như một vùng
biển động
Xin hãy vì em đừng dậy sóng
bạc đầu
Ngủ đi anh! Ngủ đi anh!
À ơi!
Con cò bay lả bay la
Bay từ cổ tích bay qua đời
mình
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim ăn ghém thì mình xa
nhau…
À… à ơi!
Thân em là hạt mưa rào
Một chiều cả gió lạc vào lòng
anh
Ta về sắm nhiễu Nghi Đình
À ơi!
Ta về sắm nhiễu Nghi Đình
À ơi!
Thôi ngủ đi, ngủ đi ơi dòng
sông trăn trở
Trăm nhánh ưu phiền xin chảy
hết về em.
ivan:
VẦNG TRĂNG XA KHUẤT
Truyện ngắn của Ngô Thị Ý Nhi
Người ta bảo tôi giống chị
Trầm. Thuở nhỏ tôi vẫn thường
đỏ bừng mặt lên vì sung sướng
khi có ai nói với tôi điều ấy. Chi
Trầm là chị họ xa của tôi nhưng
tôi mê chị từ khi mình còn là cô
bé con lớp đệ thất trường
Trung học Thành Nội, và chị, nữ
sinh lớp đệ tam trường Đồng
khánh. Chị có mái tóc dài quá
lưng. Mùa thu, xõa tóc thề, mùa
hạ buộc tóc bằng chiếc khăn lụa
trắng. Từ đó tôi không chịu để
mẹ cắt tóc bom-bê nữa. Tôi
chăm chút mớ tóc chấmvai của
mình, đòi mẹ may một bộ áo dài
lụa mịn màng và đi học còn bày
đặt đội thêm một chiếc nón lá
to quá khổ. Mẹ lắc đầu bảo
trông tôi cứ như cái nấm biết
đi, mà lại vừa đi vừa nhảy.
Trường học tôi rất gần nhà.
Buổi sáng để đến trường tôi
chỉ cần men theo những con
đường nhỏ đầy cỏ đẫm sương
được che mát bằng những tàng
nhãn xanh um. Quanh quẫn bên
tôi bầy se sẻ mắt nâu bay lên,
đáp xuống hớn hở mừng tôi
bằng tiếng kêu ríu rít. Cứ thế,
chúng theo tôi. Cả khi trong giờ
học, lơ đễnh nhìn ra cửa lớp,
trên vòm cây long não tôi bắt
gặp chúng nhảy nhót trên
những cành xanh um sắc lá đầu
xuân. Một bữa, cô Thoa dạy
môn vạn vật đã đặt cho cả lớp
một câu hỏi “Lòai chim nào em
yêu thích nhất?” Thế là cứ tha
hồ… họa mi, hòang yến, sơn
ca… Khi được hỏi tôi đã mất
hết mấy giây ấp úng rồi mới trả
lời: “Thưa cô, em thích chim sẻ.”
Tôi còn nhớ đôi mày cong rất
đẹp của cô nhướng lên. Rất dịu
dàng, rất từ tốn cô hạ tia nhìn
xuống rồi mỉm cười bảo tôi lãng
mạn. Trở về nhà, đầu óc non
nớt của tôi mơ hồ lo sợ vì từ
ngữ lạ lùng đó. Người lớn đầu
tiên mà tôi gặp và đặt trọn
niềm tin cậy là anh Hòang ở
cạnh nhà. Anh lớn hơn tôi rất
nhiều tuổi, vẫn thường chiều
chuộng và giảng bài rất cặn kẻ
cho tôi. Tôi lột ngay chiếc nón
lá, ấm ức hỏi anh. Anh vuốt nhẹ
mớ tóc lòa xòa của tôi bảo: “Bởi
vì em yêu một lòai chim không
đẹp và hót không hay.” Tôi
không chịu, nghiêng nghiêng
mái tóc dẩu môi hỏi nữa: “Vậy
nếu em thích con chim cú mèo
thì em có lãng mạn không?”
Anh Hòang bật cười thành
tiếng ký đầu tôi đùa cợt: “Vừa
lãng mạn vừa lý sự cùn.” Tôi ấm
ức vì thái độ của anh trước một
vấn đề “nghiêm trọng” như thế
quày quả bước đi. Quanh tôi, lũ
sẻ vẫn không ngừng lích chích.
Cho mãi về sau này tôi mới
khám phá ra không phải chỉ một
mình tôi mê chị Trầm mà còn
rất nhiều, rất nhiều người nữa.
Trong đó có cả anh Hòang “của
tôi”. Khi tôi mười lăm tuổi thì
mối tình của anh chị đã làm xôn
xao cái dư luận vốn dĩ rất dễ
xôn xao của thành phố nhỏ bé
này. Cũng như bao nhiêu cuộc
tình khác , hầu như bất cứ một
nguyên nhân vô nghĩa nào
cũng dễ dàng gây ra sóng gió.
Anh Hòang trở nên trầm tĩnh, ít
nói và buồn nhiều hơn. Với trái
tim non nẻo của cô gái mười
lăm tôi chỉ biết thầm lặng nhìn
anh mà nghe lòng chùng xuống.
Mười lăm tuổi tôi mơ làm người
lớn. Năm học lớp đệ tứ trôi qua
sao quá chậm chạp và nặng nề.
Tôi mong chờ cuối năm để
được chuyển qua Đồng Khánh.
Trường tôi chỉ là chi nhánh của
Đồng Khánh nên không có lớp
đệ tam. Tôi vẫn yêu những vòm
long não xanh non sắc lá của tôi
nhưng ngôi trường mới có
cánh cổng rộng lớn và đầy bí
ẩn kia lại quyến rũ tôi rất nhiều.
Ngôi trường quay mặt ra bờ cỏ
sông Hương. Gió buổi sáng,
buổi chiều tràn về lồng lộng.
Một khỏang trời mở ra bát ngát
mênh mông rồi bất chợt khép
lại sau cánh cổng cao của một
ngôi trường nghiêm trang, cổ
kính… Tóc tôi đã dài quá lưng,
tôi đã biết đưa tay khép hở đôi
tà áo khi trời nhiều gió, và dưới
vành nón lá tôi không còn là cái
nấm biết đi .
Mùa hè năm đó, khi hay tin cả
nhà sẽ bỏ Huế vào Nam tôi lặng
lẽ ra bờ sông ngồi một mình.
Phía bên kia là Phu Văn Lâu, là
Đại Nội với dãy thành loang lỗ
nhuộm vàng sắc nắng. Đôi bàn
tay nâng lấy cằm, khuôn mặt tôi
đầm đìa nước mắt…
Tôi bỗng chớp mi, ngơ ngẩn
thấy mắt mình ráo hỏanh. Ừ
nhỉ, đã lâu lắm rồi tôi không
khóc. Có lẽ những vui buồn giờ
cũng đã khác xưa. Tôi đặt bàn
tay lên thềm nhà. Hơi lạnh thấm
dần vào da thịt. Nền xi-măng
láng bóng loang lỗ ánh mặt trời
chiếu xuyên qua kẽ lá. Cũng bậc
thềm này đây, một chiều xa
xưa lắm tôi ngồi một mình rưng
rưng nước mắt. Bức thư nhỏ
anh Hòang nhờ trao cho chị
Trầm đã bị bác gái bắt được tận
tay xé tan ra từng mảnh. Bác
mắng tôi té tát:
_ Ai dạy mày làm chuyện này?
Mới nứt mắt ra màđã… Này,
khôn hồn thì đừng dẫm lên
bước chân con Trầm.
Tôi xót xa lầm lũi chạy về, ra
sau hè nhà anh ngồi úp mặt vào
đôi tay rưng rưng nước mắt.
Chẳng biết cách nào để báo tin
xấu cho anh. Chắc anh phải
buồn, buồn ghê lắm. Chuyện của
anh đã gần như bế tắc. Bị chị
Trầm hiểu lầm, bị gia đình ngăn
cấm… Tôi nghe bước chân anh
đi lại trong phòng. Căn phòng
chỉ cách bậc thềm tôi ngồi bằng
môt cánh cửa gỗ mỏng sơn nâu.
Tôi ngước nhìn lên cây sầu
đông. Mùa này cây đã kết
những chuỗi trái thuôn tròn
biếc xanh như ngọc. Gió lùa qua
hàng cây, gió lùa vào mái tóc
tôi. Tóc tôi cũng suông, cũng
đen huyền óng ả chảy tràn trề
quá lưng như tóc chị Trầm.
Nhưng tôi, tôi không phải là chị
Trầm. Vì vậy bước chân anh
Hòang sau bức vách kia cứ phải
quay quắt khổ sở hết tới lại lui.
Tôi không phải chị Trầm nên
bức thư tội nghiệp kia đã bị xé
nát tan từng mảnh. Tại sao tôi
không phải là chị Trầm? Nếu tôi
đẩy cửa bước vào anh có lầm
tôi với chi? Anh có mỉm cười vì
hạnh phúc bất ngờ? Không, hẳn
nhiên là không. Tôi chỉ biết ngồi
một mình cắn môi quay quắt.
Và tôi chợt hiểu ra cuộc đời có
những niềm đau không thể nào
chia xẻ được…
Tôi nhìn qua hàng rào chè tàu
cắt xén cẩn thận phẳng phiu.
Bên kia là nhà tôi hồi đó. Cửa sổ
phòng tôi ngó sang cái chái này.
Nơi đây chiều chiều anh Hòang
thường ngồi xem sách. Đêm
cuối cùng trước khi bỏ Huế ra
đi tôi mở hết hai cánh cửa ngồi
đón ánh trăng. Dưới cửa sổ là
một bụi nhài ra hoa trắng muốt
ngan ngát hương đưa. Phía
vườn bên kia tôi bắt gặp mái
tóc dài của chị Trầm gục vào bờ
vai anh Hòang mà khóc. Tôi
chợt lặng người trước hạnh
phúc của anh. Mười lăm tuổi tôi
hiểu thế nào là một đêm thức
trắng. Vâng, vẫn cái hè nhà này
đây, bao nhiêu thăng trầm, bao
nhiêu biến đổi. Hơn hai chục
năm trời còn gì…
_ Uûa, dì ở đây mà con đi tìm
khắp.
Tôi quay lại bắt gặp con bé
Trầm Mi trong bộ đồ xanh điểm
lấm tấm những bông hoa trắng.
_ Mẹ đâu rồi hở Mi?
_ Dạ, mẹ con đi bẻ măng vòi.
Tôi đang còn ngơ ngác thì có
tiếng mở cổng. Trầm Mi chạy ra.
Chị Trầm thong thả đi vào, trên
đôi tay đầy những đọt măng
bé chỉ bằng đầu ngón tay. Giao
bó măng cho con gái, chị lột
chiếc nón lá quạt lấy quạt để
khuôn mặt còn đầm đìa mồ hôi.
Chị cười quay sang tôi:
_ Chiều nay rảnh, chị đi kiếm
măng mai làm ít tôm chua gởi
vô biếu chú thím. Tôm chua
phải làm với măng vòi mới
thơm chứ măng mụt mua ở chợ
mùi vị lạt lẽo lắm.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây
bên cạnh chị:
_ Lâu lắm rồi em quên mất món
ăn Huế.
_ Em vô Nam cũng hăm mấy
năm rồi. Cứ đi biền biệt không
còn nhớ ai.
Tôi cúi đầu nhận lấy lời trách
hờn của chị. Trong thâm tâm tôi
không hiểu sao mình lại đi biền
biệt mặc dù Huế vẫn thở trong
tôi, vẫn sống cùng tôi. Bầy sẻ
mắt nâu vẫn như xưa ríu rít
trước hiên nhà, trong tàng mít
xanh um tùm lá. Giàn hoa dạ lý
vẫn buông những chùm hoa
hồng phấn ngan ngát yên bình.
Chị bật cười khẽ:
_ Mà không, em có về một lần
chứ. Dạo đó vào dịp tết. Con bé
Trầm Mi mới đầy năm.
Tôi lại thấy hiện ra hình ảnh chị,
vừa dỗ con, vừa loay hoay với
bếp lữa mù mịt khói. Chị luộc
một nồi sắn bảo đùa là để đãi
khách phương xa. Huế năm đó
mùa đông trời rét dữ và cuộc
sống đang vào hồi cơ cực nhất.
Đồng lương giáo viên ít ỏi của
anh Hòang không đủ để lo cho
con thơ và mẹ già. Chị phải tính
tóan, bươn chải, lo toan. Thế
nhưng bên bếp lửa bập bùng
tôi thấy đôi mắt chị ngời lên ấm
áp cái nhìn hạnh phúc. Bàn tay
gọn gàng bẻ vụn những nhánh
củi khô nhặt nhạnh đâu đó sau
vườn đun vào bếp lửa, chị than
thở với tôi gia cảnh nhà mình.
Lời than mà sao lên bỗng xuống
trầm cứ như tiếng hát. Dạo đó
tôi cũng có một tình yêu. Và
tình yêu của tôi cũng như chị
ngày xưa, đang thời kỳ vượt
qua giông bão. Tiếng chị vẫn
êm đềm bên tôi:
_ Cuộc sống chị chừ thỏai mái
hơn rồi. Tuy nghèo vẫn cứ
nghèo thôi.
Tôi chợt nhìn quanh nhà.
Những đồ đạc đơn sơ cũ kỹ
như chúng vốn sinh ra và đã ở
đúng vị trí của mình hàng chục
năm, hàng trăm năm không hề
di chuyển. Chiếc sập gụ, chiếc tủ
thờ, những hàng cột gỗ đã lên
màu nâu bóng. Trên chiếc bàn
con kê bên cử sổ, một lọ hoa
tím cánh mỏng manh run nhẹ
theo hơi gió như một nụ cười
thầm lặng, một nhịp tim rất khẽ,
rất bình yên. Cạnh đó, trên
chiếc kệ cao cao, chiếc máy điện
thọai điểm xuyết vào bức
tranh sẫm màu một vệt sơn
trắng. Đó là phương tiện để
người anh chồng đi làm ăn xa
được thường xuyên thăm hỏi
sức khỏe mẹ già. Hôm đầu tiên
ngồi trong căn phòng quen
thuộc này chị Trầm đã vui vẻ
giới thiệu với tôi sự có mặt củ
thành viên mới đó.
Tiếng thằng Vũ cao giọng lên
như muốn tranh cãi một điều gì
làm tôi giật mình. Trong góc
phòng, hai bố con đang mãi
miết làm việc. Hai đầu tóc đen
cắt ngắn, hai chiếc áo thun
trắng, một lớn, một nhỏ mê mải
trước tấm bảng đen. Bàn tay
thằng bé tập tành bắt chước bố
cầm viên phấn vạch nên một
đường thẳng. Nét phấn vô tình
của anh Hòang ngày xưa cứa
vào trái tim tôi rạch ròi và
mạnh mẽ. Tôi bỗng cúi đầu và
thở ra rất nhẹ. Tiếng chị lẫn vào
tiếng ve râm ran:
_ Chỉ cầu mong sao cha làm thầy
nhưng con đừng đốt sách.
Tự nhiên tôi muớn khóc. Chị
tưởng điều của chị cầu mong là
đơn giản lắm, là tầm thường
lắm so với muôn vàn điều ước
của thế gian này sao. Còn tôi,
tôi ao ước những gì? Tôi tìm
kiếm những gì? Chị bỗng đổi
giọng vui vẻ:
_ Em biết không, hôm đọc được
bài thơ đầu tiên ký tên Hòang
Đan Thư trên báo, anh Hòang
quả quyết đoan chắc với chị là
của Đan Thư nhà mình.
Tôi không đáp, chỉ mỉm cười
bâng quơ. Chị bỗng ngước mắt
lên, đưa tay vén mấy sợi tóc
mây lòa xòa:
_ Chị thì hơi ngờ ngợ. Bởi nếu là
em thì phải là Hòang Thị Đan
Thư chứ. Răng lại bỏ đi chữ
“Thị”?
Tôi cúi đầu, tóc phủ xuống che
một phần khuôn mặt rồi vờ dõi
theo bầy chim sẻ mắt nâu. Bầy
chim sẻ lúc nào cũng là bạn bè
của tôi, chúng hiểu và giúp tôi
mọi lúc. Một con chim vỗ cánh
bay tít lên lẫn vào cây mít sum
suê sắc lá. Chị cũng nhìn theo
cánh chim:
_ Chịu em là tài. Làm việc căng
thẳng như em mà còn viết lách
được.
Tôi ngả người ra tựa vào thành
ghế mây khép hờ đôi mắt. Một
thế giới hỗn độn âm thanh và
sắc màu nhảy nhót quanh tôi. Ở
đó, vì công việc mỗi đêm, mỗi
ngày tôi phải nói, nói và nói thứ
ngôn ngữ vô hồn xa lạ. Giọng
tôi đập vào micro rồi dội lên
trong gian phòng ngột ngạt
nóng bức. Hàng nút đều đặn
trên chiếc máy cassette cứ bấm
rồi buông, bấm rồi buông… Aâm
thanh phát ra từ đó trống rỗng,
vô hồn. Vài ba tháng lại hết một
khóa dạy. Trước tôi là những
khuôn mặt mới nhưng tôi và
chiếc máy cassette thì vẫn như
xưa. Có chăng là cả hai cùng
mòn mỏi đi, già nua đi. Rồi cũng
như cái máy giọng tôi sẽ dần
dần rè đi, lạc cung, lạc bậc.
Người ta chỉ việc bấm chuông,
thế là tôi bắt đầu nói chừng ấy
chuyện, chừng ấy lời. Những
câu pha trò của tôi được lập đi,
lập lại không biết bao nhiêu
khóa học đến nỗi chúng đã
nhạt thếch trong tôi…
_ Lớn lên chị sẽ cho thẵng Vũ
vào Nam học Đại học cho rộng
đường, còn Trầm Mi thì giữ lại
đây lo chuyện chồng con… Thế
còn em…
Chị bỗng ngập ngừng khi đề
cập đến một vấn đề mà người
khác hỏi thăm rất nhẹ nhàng,
rất lưu lóat như một câu pha
trò kinh điển vậy. Tôi chợt nhận
thấy mình đã im lặng quá lâu
giữa khu vườn yên tĩnh này.
Chị bứt một chiếc lá của bụi
ngâu gần đấy rồi nhìn mãi
những đường gân chằng chịt:
_ Cũng phải tính em ạ. Hết đời
chu thím em sẽ thấy cô đơn.
Nắng đã tàn trên ngọn cây cao.
Tôi nghe tiếng mình lẫn với
tiếng ve dội lên từng hồi ray
rứt:
_ Sống một mình cũng cô đơn,
sống hai mình chắc gì không cô
đơn. Mà cái cô đơn thứ hai này
mới đáng sợ.
_ Em nghĩ nhiều quá. Nghĩ
nhiều quá thì sẽ khổ.
Chiếc lá xanh bé nhỏ kia đang
nằm gọn gàng trong bàn tay
chị. Năm ngón tay khép lại nhẹ
nhàng và đơn giản làm sao. Còn
bàn tay tôi, sao cứ phải xòe ra?
Suốt đời chị chiếm giữ dễ dàng
tất cả những gì tôi mơ ước , tôi
quay quắt kiếm tìm thản nhiên
như đang nắm giữ chiếc lá
xanh kia vậy. Trong khi đó tôi
trượt dài, vấp ngã với trò chơi
cút bắt. Tôi hăm hở tập tành
vượt qua bão giông nhóm cho
mình một bếp lửa bập bùng
hạnh phúc như của chị ngày
xưa nhưng… Hỡi người tình
đầu tiên của tôi! Biết làm sao
khi anh không thể hiểu được
rằng trong khốn khó tôi đã
chạy đến cùng anh để xin chia
phần trái đắng, thế nhưng khi
trên tay anh đầy quả ngọt ngào
thì tôi lại quay mặt bỏ đi chỉ vì
anh không có ý mời tôi. Anh
thích thú chờ tôi cuống quýt
chạy đến tranh giành với người
khác. Không, tôi không biết
tranh giành. Tôi biết mình luôn
luôn là người tha cuộc trong
mọi cuộc tranh giành. Cứ thế,
trong khi chị thản nhiên lấy
chồng, thản nhiên sinh con,
thản nhiên ngày mỗi ngày tính
tóan chi li những đồng tiền chợ
thì tôi va vào mối tình thứ hai,
vấp phải mối tình thứ ba…
***
Tôi giữ chiếc ống nghe trong
tay. Ở đầu dây kia tiếng người
đàn ông dồn dập:
_ Thế là xong. Tòa mới xử ly
hôn hồi sáng qua. Cứ lấn cấn
mãi vụ cái nhà. Còn em, chừng
nào em vào?
_ Thì em cũng tính…
_ Còn tính gì nữa. Anh mong em
mãi. Gọi điện để anh đi đón
nhé.
Tôi ậm ừ rồi cúp máy. Trong góc
phòng hành lý đã xếp gọn gàng
cho một chuyến đi. Từ hôm qua
đến nay, điện thọai của gia
đình, của bạn bè cứ gọi mãi. Cái
thế giới nhộn nhịp trong kia bắt
đầu len lỏi, tìm tòi, nhắc nhở tôi
một mảnh đời đang hiện hữu.
Kể cả người đàn ông đó nữa.
Người đàn ông lấn cấn mãi vì
một cái nhà trong một cuộc ly
hôn. Điều này quan trọng lắm
chứ. Suốt cuộc đời chắc gì
người ta tạo dựng được một
cái nhà trong thành phố đất
chật người đông đó. Còn tôi, tôi
nào tìm một chỗ trú thân. Tôi
tìm một con người kia mà, một
con người rất thật…
Tôi cắn môi ngó ra cửa sổ. Sau
vườn, bên bụi chuối đong đưa
tàu lá, vạt hoa mười giờ nở
bung hết cánh đỏ rực lên đằm
thắm nồng nàn. Sợi dây thép
căng ngang đang trĩu áo quần
mới giặt xong nước còn nhỏ
giọt. Trầm Mi tóc cột cao, vẩy
vẩy bàn tay cho ráo nước ngó
vào bắt gặp cái nhìn của tôi:
_ Chắc dì bắt đầu chán Huế rồi.
Điện thọai cứ gọi dì liên tục.
Đáp lời Trầm Mi, tiếng chuông
lại reo. Tôi nhắc máy. Tiếng
Thanh ở đầu kia vui vẻ:
_ Mày đấy hả Thư? Tao tưởng
mày chết tiệt ở xó xỉnh nào rồi
chứ.
_ Không, tao vẫn sống để
phụng sự mày.
_ Ai phụng sự ai? Tao đang ì ạch
gánh giùm mày lớp học ở nhà.
Lớp buổi tối phải năn nỉ tụi con
Lan, con Thương giúp giùm.
Mày vào gấp vì tụi tao ỏai quá
rồi.
_ Được rồi, chiều nay tao trình
diện mày.
_ Hả? Chiều nay hả? Bay chuyến
nào?
_ Chuyến bốn rưỡi. Sáu giờ có
mặt ở Tân Sơn Nhất.
_ Vậy hả? Tao sẽ đi đón mày.
Biết không, cái shop ở Nguyễn
Trãi mới ra mấy kiểu đầm lịch
sự lắm. Vào mà chọn với tao.
Còn chuyện này mữa, tao mới
khám phá ra một quán bò tùng
xẻo…
_ Điện thọai đường dài đấy. Cúp
đi. Tốn tiền lắm.
_ Mày để tao nói cho đã ghiền.
Không có mày tao thiếu đủ thứ.
Buổi tối dạy xong cô đơn đi ăn
phở, cô đơn chạy xe một mình,
cô đơn xách cassette băng qua
cái sân mênh mông trống trải.
Tao…
_ Cuối tháng rồi. Cạn túi chưa?
_ Mày đừng nhắc khéo tao tiền
cước phí điện thọai. Nhằm nhò
gì ba cái lẻ tẻ. Để cho tao nói…
Đến đâu rồi nhỉ?... À này, tin
động trời. Mày có nhớ thằng
Jones không? Nó bị tóm rồi.
_ Hả? Sao thế? Vì tội gì? Thằng
đó đàng hòang học thức lắm
mà.
Tiếng Thanh đầu giây kia cười
ngất đến sốt ruột:
_ Mày biết ai tóm nó không?
Con Hồng móm mày ạ. Nó tuyên
bố rồi. Tháng sau cưới. Một dạo
tên Jones lẻo đẻo bám váy mày
tao đã bảo mày chỉ cần quay
người lại là tóm gọn. Mà này,
chiều nay đến Tân Sơn Nhất có
đụng phải “cái đuôi” của mày
không?
_ Không, tao không báo ngày
vào.
_ Mày không thích hắn thì cắt
đi. Sao lại để lòng thòng thế?
_ Không cần thiết. Cứ để từ từ
rối sẽ rụng.
_ Ha, mày làm tao nghĩ đến con
nòng nọc. Thế là chiều nay chỉ
có tao với mày thôi phải
không? Bye-bye nhé! Sáu giờ
nhé! OK?
_ OK.
Tôi gác máy. Tiếng nói đầu giây
kia đã dứt nhưng còn âm vang
mãi trong tôi. Một khỏang trời
khác, một mảnh đời khác và
giọng nói tiếng cười của tôi
cũng khác. Những mối dây ràng
buộc vào nhau vừa thân thiết
vừa ngột ngạt. Cứ thế, cuộc
sống lăn đi…
Aên với chị Trầm một bữa cơm
cuối cùng tôi xách hành lý ra đi
khi mặt trời mùa hạ chói chang
đổ lửa. Xe tôi ngang qua Đồng
Khánh, ngôi trường mơ ước của
tôi cửa khép im lìm; ngôi
trường mà tôi chưa hề có diễm
phúc chạm tay vào một thân
cây, một ô cửa lớp. Có lẽ trong
vuông sân rợp bóng mát kia có
rất nhiều chim sẻ. Thôi thì cứ
để chúng thay tôi bay nhảy, ríu
rít, đùa vui. Xe chạy dọc theo
bờ sông cỏ mượt. Nước vẫn
xanh, xanh đến nao lòng. Xe đi
qua ruộng đồng, bờ bải, lũy tre,
mái đình… Lại thêm một lần tôi
rời bỏ Huế, thêm một lần tôi làm
kẻ ra đi.
Gởi xong hành lý, tôi tựa người
vào tường ngó mông lung ra
cửa. Sân bay Phú Bài bát ngát
chói chang. Bờ mi tôi trĩu
xuống. Đêm rồi, lại thêm một
đêm mất ngủ. Mà cũng là một
đêm trăng. Cánh cửa sổ mở
tung ra khu vườn ngan ngát
hương hoa. Aùnh trăng tràn
vào đầm đìa trên gối. Đêm cuối
cùng tôi thức cùng Huế, thức
cùng ký ức, thức cùng sắc vàng
bàng bạc trăng khuya. Mảnh
đất này đã giữ hết của tôi ước
mơ, hạnh phúc, níu giữ tất cả
những gì bấy nay tôi khao khát
đi tìm để rồi hóa thân thành
những vần thơ khắc khỏai ,
những vần thơ ray rứt cồn cào
tận đáy tim tôi. Aùnh trăng
mơn man trên đôi cánh tay
trần. Vẫn vầng trăng xưa cũ
nhưng tôi thì đã khác xưa.
Mười lăm tuổi, trước một
chuyến đi, tôi đã thức trắng
đêm để tự dỗ dành mình rằng
sẽ quên đi, quên đi rất dễ, rằng
tất cả chỉ mới bắt đầu, tất cả
còn là phía trước. Những gì của
chị Trầm vẫn là của chị Trầm. Tôi
sẽ tìm cho tôi những gì thuộc
về tôi để chăm chút như chị
ngồi vo tròn hạnh phúc. Hơn hai
chục năm sau, giờ đây tôi lại
thấy mình bơ vơ trơ trọi dưới
ánh trăng. Những gì của chị vẫn
thuộc về chị. Còn tôi, trước
hạnh phúc tôi vẫn là con bé con
vụng về ngờ nghệch trong
chiếc nón lá to quá khổ như
một cái nấm biết đi. Tôi miệt
mài mơ ước, miệt mài tìm đến
hụt hơi những gì giống như chị
có mà không hay những gì
trong tay chị là duy nhất, không
hề có một phiên bản thứ hai. Chỉ
có tôi, tôi trở thành một phiên
bản vụng về thô ráp của chị. Mà
đau đớn thay, lại là một phiên
bản có linh hồn. Thời gian qua…
tôi nhìn lại tôi, lớp sơn màu trôi
tuột đi, loang lỗ… Aùnh trăng
ngòai kia cứ ngời lên sắc màu
huyền họăc. Đêm đã khuya quá
rồi. Tôi vịn tay vào song cửa.
Lẫn vào bóng lá lung linh một
bóng đen bất động bên hè nhà
tựa cột ngó mông lung. Tôi
nhòai người ra. Bóng đen lẫn
vào trong biến mất. Ai đấy? Chị
Trầm chăng? Tôi mở cửa bước
ra. Đêm vắng lặng. Bãng lãng
quanh đây gió phả mùi thuốc lá
cay cay. Tựa vào cánh cửa sơn
nâu, tôi úp mặt vào đôi tay. Vẫn
chỉ là tấm cửa gỗ mỏng manh
ngày đó. Cảm ơn một người đã
cùng thức với tôi trong đêm
trăng huyền hoặc này. Một
chiều xa xưa tôi cũng ngồi một
mình bên thềm đá… Vâng, tôi
hiểu, hiểu từ khi vừa tròn mười
lăm tuổi, cuộc đời này có những
nỗi đau không thể nào chia xẻ
được…
Hơn hai mươi năm rồi… Trầm Mi
đang ở vào tuổi tôi hồi đó. Cô
bé có như tôi, yêu lòai chim sẻ,
cónhư tôi, chiều chiều thả bộ
trên đường phượng bay, có
như tôi, ra bờ sông ngó mãi
những con đò xuôi ngược… Và
cô bé thân yêu của tôi, đã bao
giờ thao thức đến trắng đêm?...
Tôi cắn môi, nghe một giọt
nước mắt ứa trên rèm mi nóng
hổi. Bất giác tôi lùa năm ngón
tay vào mái tóc rối bời rồi bỗng
giật mình ngơ ngác. Như người
mộng du, tôi tìm phòng điện
thọai nhấn vào những con số
thân quen. Một giọng nói trong
veo ở đầu giây kia. Tôi im lặng,
tưởng tượng ra ngôi nhà cổ im
lìm với khu vườn rợp mát,
tưởng tượng ra tiếng gió lao
xao và bầy chim lích chích đáp
xuống bay lên. Tiếng “allo” nhắc
lại một lần nữa. Tôi thấy chiếc
ống nghe run lên trong lòng
tay, giọng tôi nghẹn lại:
_ Trầm Mi ơi! Dì có để quên một
giải lụa buộc tóc phía trên đầu
giường. Con giữ giùm dì, Mi
nhé!
Một tiếng “dạ” rất khẽ tưởng
như tan vào trong gió nắng. Tôi
cúp máy lặng người đi. Tiếng cô
xướng ngôn viên cất lên gióng
giả báo giờ bay. Tôi tiến về cửa
ra phi trường. Nắng chói chang.
Bốn bề bát ngát. Đường băng
kéo dài tít tắp. Con chim sắt
khổng lồ đang chờ tôi ở đo. Tôi
sẽ đáp xuống Tân Sơn Nhất lúc
sáu giờ, khi thành phố lên đèn.
Tôi sẽ ngồi sau lưng Thanh ôm
quàng lấy nó thân thiết. Nắng
phản chiếu trên đôi cánh máy
bay làm chói mắt tôi. Đôi cánh
chông chênh này sẽ đưa tôi đi,
lạnh lùng băng mình về phía
trước, bỏ lại sau lưng một vầng
trăng… vầng trăng xa khuất 
Cơn mưa chiều đã tạnh từ lâu 
Trời đằm thắm như chưa hề 
mưa nắng 
Để em bảo lũ chuồn chuồn cánh 
mỏng 
Bay là đà vừa đủ để trời râm 
Ngủ đi anh 
Cho em lùa tay vào mái tóc 
xanh 
Như ngọn gió lùa qua cành mơn 
trớn 
Gió thì lạnh mà tay em thì ấm 
Ngủ cho ngoan ơi những nhánh 
tóc mềm 
Cứ tựa mình vào cánh tay em 
Sợi tóc bạc của đêm dài thao 
thức 
Cho em nghe nửa cuộc đời 
đắng ngọt 
Đang hòa dần vào cả cuộc đời 
em 
Ngủ đi anh 
Hãy ngủ thật bình yên 
Đừng trăn trở mà làm đau cả 
mộng 
Và vầng trán như một vùng 
biển động 
Xin hãy vì em đừng dậy sóng 
bạc đầu 
Ngủ đi anh! Ngủ đi anh! 
À ơi! 
Con cò bay lả bay la 
Bay từ cổ tích bay qua đời 
mình 
Bao giờ rau diếp làm đình 
Gỗ lim ăn ghém thì mình xa 
nhau… 
À… à ơi! 
Thân em là hạt mưa rào 
Một chiều cả gió lạc vào lòng 
anh 
Ta về sắm nhiễu Nghi Đình 
À ơi! 
Ta về sắm nhiễu Nghi Đình 
À ơi! 
Thôi ngủ đi, ngủ đi ơi dòng 
sông trăn trở 
Trăm nhánh ưu phiền xin chảy 
hết về em. 
ivan: 
VẦNG TRĂNG XA KHUẤT 
Truyện ngắn của Ngô Thị Ý Nhi 
Người ta bảo tôi giống chị 
Trầm. Thuở nhỏ tôi vẫn thường 
đỏ bừng mặt lên vì sung sướng 
khi có ai nói với tôi điều ấy. Chi 
Trầm là chị họ xa của tôi nhưng 
tôi mê chị từ khi mình còn là cô 
bé con lớp đệ thất trường 
Trung học Thành Nội, và chị, nữ 
sinh lớp đệ tam trường Đồng 
khánh. Chị có mái tóc dài quá 
lưng. Mùa thu, xõa tóc thề, mùa 
hạ buộc tóc bằng chiếc khăn lụa 
trắng. Từ đó tôi không chịu để 
mẹ cắt tóc bom-bê nữa. Tôi 
chăm chút mớ tóc chấmvai của 
mình, đòi mẹ may một bộ áo dài 
lụa mịn màng và đi học còn bày 
đặt đội thêm một chiếc nón lá 
to quá khổ. Mẹ lắc đầu bảo 
trông tôi cứ như cái nấm biết 
đi, mà lại vừa đi vừa nhảy. 
Trường học tôi rất gần nhà. 
Buổi sáng để đến trường tôi 
chỉ cần men theo những con 
đường nhỏ đầy cỏ đẫm sương 
được che mát bằng những tàng 
nhãn xanh um. Quanh quẫn bên 
tôi bầy se sẻ mắt nâu bay lên, 
đáp xuống hớn hở mừng tôi 
bằng tiếng kêu ríu rít. Cứ thế, 
chúng theo tôi. Cả khi trong giờ 
học, lơ đễnh nhìn ra cửa lớp, 
trên vòm cây long não tôi bắt 
gặp chúng nhảy nhót trên 
những cành xanh um sắc lá đầu 
xuân. Một bữa, cô Thoa dạy 
môn vạn vật đã đặt cho cả lớp 
một câu hỏi “Lòai chim nào em 
yêu thích nhất?” Thế là cứ tha 
hồ… họa mi, hòang yến, sơn 
ca… Khi được hỏi tôi đã mất 
hết mấy giây ấp úng rồi mới trả 
lời: “Thưa cô, em thích chim sẻ.” 
Tôi còn nhớ đôi mày cong rất 
đẹp của cô nhướng lên. Rất dịu 
dàng, rất từ tốn cô hạ tia nhìn 
xuống rồi mỉm cười bảo tôi lãng 
mạn. Trở về nhà, đầu óc non 
nớt của tôi mơ hồ lo sợ vì từ 
ngữ lạ lùng đó. Người lớn đầu 
tiên mà tôi gặp và đặt trọn 
niềm tin cậy là anh Hòang ở 
cạnh nhà. Anh lớn hơn tôi rất 
nhiều tuổi, vẫn thường chiều 
chuộng và giảng bài rất cặn kẻ 
cho tôi. Tôi lột ngay chiếc nón 
lá, ấm ức hỏi anh. Anh vuốt nhẹ 
mớ tóc lòa xòa của tôi bảo: “Bởi 
vì em yêu một lòai chim không 
đẹp và hót không hay.” Tôi 
không chịu, nghiêng nghiêng 
mái tóc dẩu môi hỏi nữa: “Vậy 
nếu em thích con chim cú mèo 
thì em có lãng mạn không?” 
Anh Hòang bật cười thành 
tiếng ký đầu tôi đùa cợt: “Vừa 
lãng mạn vừa lý sự cùn.” Tôi ấm 
ức vì thái độ của anh trước một 
vấn đề “nghiêm trọng” như thế 
quày quả bước đi. Quanh tôi, lũ 
sẻ vẫn không ngừng lích chích. 
Cho mãi về sau này tôi mới 
khám phá ra không phải chỉ một 
mình tôi mê chị Trầm mà còn 
rất nhiều, rất nhiều người nữa. 
Trong đó có cả anh Hòang “của 
tôi”. Khi tôi mười lăm tuổi thì 
mối tình của anh chị đã làm xôn 
xao cái dư luận vốn dĩ rất dễ 
xôn xao của thành phố nhỏ bé 
này. Cũng như bao nhiêu cuộc 
tình khác , hầu như bất cứ một 
nguyên nhân vô nghĩa nào 
cũng dễ dàng gây ra sóng gió. 
Anh Hòang trở nên trầm tĩnh, ít 
nói và buồn nhiều hơn. Với trái 
tim non nẻo của cô gái mười 
lăm tôi chỉ biết thầm lặng nhìn 
anh mà nghe lòng chùng xuống. 
Mười lăm tuổi tôi mơ làm người 
lớn. Năm học lớp đệ tứ trôi qua 
sao quá chậm chạp và nặng nề. 
Tôi mong chờ cuối năm để 
được chuyển qua Đồng Khánh. 
Trường tôi chỉ là chi nhánh của 
Đồng Khánh nên không có lớp 
đệ tam. Tôi vẫn yêu những vòm 
long não xanh non sắc lá của tôi 
nhưng ngôi trường mới có 
cánh cổng rộng lớn và đầy bí 
ẩn kia lại quyến rũ tôi rất nhiều. 
Ngôi trường quay mặt ra bờ cỏ 
sông Hương. Gió buổi sáng, 
buổi chiều tràn về lồng lộng. 
Một khỏang trời mở ra bát ngát 
mênh mông rồi bất chợt khép 
lại sau cánh cổng cao của một 
ngôi trường nghiêm trang, cổ 
kính… Tóc tôi đã dài quá lưng, 
tôi đã biết đưa tay khép hở đôi 
tà áo khi trời nhiều gió, và dưới 
vành nón lá tôi không còn là cái 
nấm biết đi . 
Mùa hè năm đó, khi hay tin cả 
nhà sẽ bỏ Huế vào Nam tôi lặng 
lẽ ra bờ sông ngồi một mình. 
Phía bên kia là Phu Văn Lâu, là 
Đại Nội với dãy thành loang lỗ 
nhuộm vàng sắc nắng. Đôi bàn 
tay nâng lấy cằm, khuôn mặt tôi 
đầm đìa nước mắt… 
Tôi bỗng chớp mi, ngơ ngẩn 
thấy mắt mình ráo hỏanh. Ừ 
nhỉ, đã lâu lắm rồi tôi không 
khóc. Có lẽ những vui buồn giờ 
cũng đã khác xưa. Tôi đặt bàn 
tay lên thềm nhà. Hơi lạnh thấm 
dần vào da thịt. Nền xi-măng 
láng bóng loang lỗ ánh mặt trời 
chiếu xuyên qua kẽ lá. Cũng bậc 
thềm này đây, một chiều xa 
xưa lắm tôi ngồi một mình rưng 
rưng nước mắt. Bức thư nhỏ 
anh Hòang nhờ trao cho chị 
Trầm đã bị bác gái bắt được tận 
tay xé tan ra từng mảnh. Bác 
mắng tôi té tát: 
_ Ai dạy mày làm chuyện này? 
Mới nứt mắt ra màđã… Này, 
khôn hồn thì đừng dẫm lên 
bước chân con Trầm. 
Tôi xót xa lầm lũi chạy về, ra 
sau hè nhà anh ngồi úp mặt vào 
đôi tay rưng rưng nước mắt. 
Chẳng biết cách nào để báo tin 
xấu cho anh. Chắc anh phải 
buồn, buồn ghê lắm. Chuyện của 
anh đã gần như bế tắc. Bị chị 
Trầm hiểu lầm, bị gia đình ngăn 
cấm… Tôi nghe bước chân anh 
đi lại trong phòng. Căn phòng 
chỉ cách bậc thềm tôi ngồi bằng 
môt cánh cửa gỗ mỏng sơn nâu. 
Tôi ngước nhìn lên cây sầu 
đông. Mùa này cây đã kết 
những chuỗi trái thuôn tròn 
biếc xanh như ngọc. Gió lùa qua 
hàng cây, gió lùa vào mái tóc 
tôi. Tóc tôi cũng suông, cũng 
đen huyền óng ả chảy tràn trề 
quá lưng như tóc chị Trầm. 
Nhưng tôi, tôi không phải là chị 
Trầm. Vì vậy bước chân anh 
Hòang sau bức vách kia cứ phải 
quay quắt khổ sở hết tới lại lui. 
Tôi không phải chị Trầm nên 
bức thư tội nghiệp kia đã bị xé 
nát tan từng mảnh. Tại sao tôi 
không phải là chị Trầm? Nếu tôi 
đẩy cửa bước vào anh có lầm 
tôi với chi? Anh có mỉm cười vì 
hạnh phúc bất ngờ? Không, hẳn 
nhiên là không. Tôi chỉ biết ngồi 
một mình cắn môi quay quắt. 
Và tôi chợt hiểu ra cuộc đời có 
những niềm đau không thể nào 
chia xẻ được… 
Tôi nhìn qua hàng rào chè tàu 
cắt xén cẩn thận phẳng phiu. 
Bên kia là nhà tôi hồi đó. Cửa sổ 
phòng tôi ngó sang cái chái này. 
Nơi đây chiều chiều anh Hòang 
thường ngồi xem sách. Đêm 
cuối cùng trước khi bỏ Huế ra 
đi tôi mở hết hai cánh cửa ngồi 
đón ánh trăng. Dưới cửa sổ là 
một bụi nhài ra hoa trắng muốt 
ngan ngát hương đưa. Phía 
vườn bên kia tôi bắt gặp mái 
tóc dài của chị Trầm gục vào bờ 
vai anh Hòang mà khóc. Tôi 
chợt lặng người trước hạnh 
phúc của anh. Mười lăm tuổi tôi 
hiểu thế nào là một đêm thức 
trắng. Vâng, vẫn cái hè nhà này 
đây, bao nhiêu thăng trầm, bao 
nhiêu biến đổi. Hơn hai chục 
năm trời còn gì… 
_ Uûa, dì ở đây mà con đi tìm 
khắp. 
Tôi quay lại bắt gặp con bé 
Trầm Mi trong bộ đồ xanh điểm 
lấm tấm những bông hoa trắng. 
_ Mẹ đâu rồi hở Mi? 
_ Dạ, mẹ con đi bẻ măng vòi. 
Tôi đang còn ngơ ngác thì có 
tiếng mở cổng. Trầm Mi chạy ra. 
Chị Trầm thong thả đi vào, trên 
đôi tay đầy những đọt măng 
bé chỉ bằng đầu ngón tay. Giao 
bó măng cho con gái, chị lột 
chiếc nón lá quạt lấy quạt để 
khuôn mặt còn đầm đìa mồ hôi. 
Chị cười quay sang tôi: 
_ Chiều nay rảnh, chị đi kiếm 
măng mai làm ít tôm chua gởi 
vô biếu chú thím. Tôm chua 
phải làm với măng vòi mới 
thơm chứ măng mụt mua ở chợ 
mùi vị lạt lẽo lắm. 
Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây 
bên cạnh chị: 
_ Lâu lắm rồi em quên mất món 
ăn Huế. 
_ Em vô Nam cũng hăm mấy 
năm rồi. Cứ đi biền biệt không 
còn nhớ ai. 
Tôi cúi đầu nhận lấy lời trách 
hờn của chị. Trong thâm tâm tôi 
không hiểu sao mình lại đi biền 
biệt mặc dù Huế vẫn thở trong 
tôi, vẫn sống cùng tôi. Bầy sẻ 
mắt nâu vẫn như xưa ríu rít 
trước hiên nhà, trong tàng mít 
xanh um tùm lá. Giàn hoa dạ lý 
vẫn buông những chùm hoa 
hồng phấn ngan ngát yên bình. 
Chị bật cười khẽ: 
_ Mà không, em có về một lần 
chứ. Dạo đó vào dịp tết. Con bé 
Trầm Mi mới đầy năm. 
Tôi lại thấy hiện ra hình ảnh chị, 
vừa dỗ con, vừa loay hoay với 
bếp lữa mù mịt khói. Chị luộc 
một nồi sắn bảo đùa là để đãi 
khách phương xa. Huế năm đó 
mùa đông trời rét dữ và cuộc 
sống đang vào hồi cơ cực nhất. 
Đồng lương giáo viên ít ỏi của 
anh Hòang không đủ để lo cho 
con thơ và mẹ già. Chị phải tính 
tóan, bươn chải, lo toan. Thế 
nhưng bên bếp lửa bập bùng 
tôi thấy đôi mắt chị ngời lên ấm 
áp cái nhìn hạnh phúc. Bàn tay 
gọn gàng bẻ vụn những nhánh 
củi khô nhặt nhạnh đâu đó sau 
vườn đun vào bếp lửa, chị than 
thở với tôi gia cảnh nhà mình. 
Lời than mà sao lên bỗng xuống 
trầm cứ như tiếng hát. Dạo đó 
tôi cũng có một tình yêu. Và 
tình yêu của tôi cũng như chị 
ngày xưa, đang thời kỳ vượt 
qua giông bão. Tiếng chị vẫn 
êm đềm bên tôi: 
_ Cuộc sống chị chừ thỏai mái 
hơn rồi. Tuy nghèo vẫn cứ 
nghèo thôi. 
Tôi chợt nhìn quanh nhà. 
Những đồ đạc đơn sơ cũ kỹ 
như chúng vốn sinh ra và đã ở 
đúng vị trí của mình hàng chục 
năm, hàng trăm năm không hề 
di chuyển. Chiếc sập gụ, chiếc tủ 
thờ, những hàng cột gỗ đã lên 
màu nâu bóng. Trên chiếc bàn 
con kê bên cử sổ, một lọ hoa 
tím cánh mỏng manh run nhẹ 
theo hơi gió như một nụ cười 
thầm lặng, một nhịp tim rất khẽ, 
rất bình yên. Cạnh đó, trên 
chiếc kệ cao cao, chiếc máy điện 
thọai điểm xuyết vào bức 
tranh sẫm màu một vệt sơn 
trắng. Đó là phương tiện để 
người anh chồng đi làm ăn xa 
được thường xuyên thăm hỏi 
sức khỏe mẹ già. Hôm đầu tiên 
ngồi trong căn phòng quen 
thuộc này chị Trầm đã vui vẻ 
giới thiệu với tôi sự có mặt củ 
thành viên mới đó. 
Tiếng thằng Vũ cao giọng lên 
như muốn tranh cãi một điều gì 
làm tôi giật mình. Trong góc 
phòng, hai bố con đang mãi 
miết làm việc. Hai đầu tóc đen 
cắt ngắn, hai chiếc áo thun 
trắng, một lớn, một nhỏ mê mải 
trước tấm bảng đen. Bàn tay 
thằng bé tập tành bắt chước bố 
cầm viên phấn vạch nên một 
đường thẳng. Nét phấn vô tình 
của anh Hòang ngày xưa cứa 
vào trái tim tôi rạch ròi và 
mạnh mẽ. Tôi bỗng cúi đầu và 
thở ra rất nhẹ. Tiếng chị lẫn vào 
tiếng ve râm ran: 
_ Chỉ cầu mong sao cha làm thầy 
nhưng con đừng đốt sách. 
Tự nhiên tôi muớn khóc. Chị 
tưởng điều của chị cầu mong là 
đơn giản lắm, là tầm thường 
lắm so với muôn vàn điều ước 
của thế gian này sao. Còn tôi, 
tôi ao ước những gì? Tôi tìm 
kiếm những gì? Chị bỗng đổi 
giọng vui vẻ: 
_ Em biết không, hôm đọc được 
bài thơ đầu tiên ký tên Hòang 
Đan Thư trên báo, anh Hòang 
quả quyết đoan chắc với chị là 
của Đan Thư nhà mình. 
Tôi không đáp, chỉ mỉm cười 
bâng quơ. Chị bỗng ngước mắt 
lên, đưa tay vén mấy sợi tóc 
mây lòa xòa: 
_ Chị thì hơi ngờ ngợ. Bởi nếu là 
em thì phải là Hòang Thị Đan 
Thư chứ. Răng lại bỏ đi chữ 
“Thị”? 
Tôi cúi đầu, tóc phủ xuống che 
một phần khuôn mặt rồi vờ dõi 
theo bầy chim sẻ mắt nâu. Bầy 
chim sẻ lúc nào cũng là bạn bè 
của tôi, chúng hiểu và giúp tôi 
mọi lúc. Một con chim vỗ cánh 
bay tít lên lẫn vào cây mít sum 
suê sắc lá. Chị cũng nhìn theo 
cánh chim: 
_ Chịu em là tài. Làm việc căng 
thẳng như em mà còn viết lách 
được. 
Tôi ngả người ra tựa vào thành 
ghế mây khép hờ đôi mắt. Một 
thế giới hỗn độn âm thanh và 
sắc màu nhảy nhót quanh tôi. Ở 
đó, vì công việc mỗi đêm, mỗi 
ngày tôi phải nói, nói và nói thứ 
ngôn ngữ vô hồn xa lạ. Giọng 
tôi đập vào micro rồi dội lên 
trong gian phòng ngột ngạt 
nóng bức. Hàng nút đều đặn 
trên chiếc máy cassette cứ bấm 
rồi buông, bấm rồi buông… Aâm 
thanh phát ra từ đó trống rỗng, 
vô hồn. Vài ba tháng lại hết một 
khóa dạy. Trước tôi là những 
khuôn mặt mới nhưng tôi và 
chiếc máy cassette thì vẫn như 
xưa. Có chăng là cả hai cùng 
mòn mỏi đi, già nua đi. Rồi cũng 
như cái máy giọng tôi sẽ dần 
dần rè đi, lạc cung, lạc bậc. 
Người ta chỉ việc bấm chuông, 
thế là tôi bắt đầu nói chừng ấy 
chuyện, chừng ấy lời. Những 
câu pha trò của tôi được lập đi, 
lập lại không biết bao nhiêu 
khóa học đến nỗi chúng đã 
nhạt thếch trong tôi… 
_ Lớn lên chị sẽ cho thẵng Vũ 
vào Nam học Đại học cho rộng 
đường, còn Trầm Mi thì giữ lại 
đây lo chuyện chồng con… Thế 
còn em… 
Chị bỗng ngập ngừng khi đề 
cập đến một vấn đề mà người 
khác hỏi thăm rất nhẹ nhàng, 
rất lưu lóat như một câu pha 
trò kinh điển vậy. Tôi chợt nhận 
thấy mình đã im lặng quá lâu 
giữa khu vườn yên tĩnh này. 
Chị bứt một chiếc lá của bụi 
ngâu gần đấy rồi nhìn mãi 
những đường gân chằng chịt: 
_ Cũng phải tính em ạ. Hết đời 
chu thím em sẽ thấy cô đơn. 
Nắng đã tàn trên ngọn cây cao. 
Tôi nghe tiếng mình lẫn với 
tiếng ve dội lên từng hồi ray 
rứt: 
_ Sống một mình cũng cô đơn, 
sống hai mình chắc gì không cô 
đơn. Mà cái cô đơn thứ hai này 
mới đáng sợ. 
_ Em nghĩ nhiều quá. Nghĩ 
nhiều quá thì sẽ khổ. 
Chiếc lá xanh bé nhỏ kia đang 
nằm gọn gàng trong bàn tay 
chị. Năm ngón tay khép lại nhẹ 
nhàng và đơn giản làm sao. Còn 
bàn tay tôi, sao cứ phải xòe ra? 
Suốt đời chị chiếm giữ dễ dàng 
tất cả những gì tôi mơ ước , tôi 
quay quắt kiếm tìm thản nhiên 
như đang nắm giữ chiếc lá 
xanh kia vậy. Trong khi đó tôi 
trượt dài, vấp ngã với trò chơi 
cút bắt. Tôi hăm hở tập tành 
vượt qua bão giông nhóm cho 
mình một bếp lửa bập bùng 
hạnh phúc như của chị ngày 
xưa nhưng… Hỡi người tình 
đầu tiên của tôi! Biết làm sao 
khi anh không thể hiểu được 
rằng trong khốn khó tôi đã 
chạy đến cùng anh để xin chia 
phần trái đắng, thế nhưng khi 
trên tay anh đầy quả ngọt ngào 
thì tôi lại quay mặt bỏ đi chỉ vì 
anh không có ý mời tôi. Anh 
thích thú chờ tôi cuống quýt 
chạy đến tranh giành với người 
khác. Không, tôi không biết 
tranh giành. Tôi biết mình luôn 
luôn là người tha cuộc trong 
mọi cuộc tranh giành. Cứ thế, 
trong khi chị thản nhiên lấy 
chồng, thản nhiên sinh con, 
thản nhiên ngày mỗi ngày tính 
tóan chi li những đồng tiền chợ 
thì tôi va vào mối tình thứ hai, 
vấp phải mối tình thứ ba… 
*** 
Tôi giữ chiếc ống nghe trong 
tay. Ở đầu dây kia tiếng người 
đàn ông dồn dập: 
_ Thế là xong. Tòa mới xử ly 
hôn hồi sáng qua. Cứ lấn cấn 
mãi vụ cái nhà. Còn em, chừng 
nào em vào? 
_ Thì em cũng tính… 
_ Còn tính gì nữa. Anh mong em 
mãi. Gọi điện để anh đi đón 
nhé. 
Tôi ậm ừ rồi cúp máy. Trong góc 
phòng hành lý đã xếp gọn gàng 
cho một chuyến đi. Từ hôm qua 
đến nay, điện thọai của gia 
đình, của bạn bè cứ gọi mãi. Cái 
thế giới nhộn nhịp trong kia bắt 
đầu len lỏi, tìm tòi, nhắc nhở tôi 
một mảnh đời đang hiện hữu. 
Kể cả người đàn ông đó nữa. 
Người đàn ông lấn cấn mãi vì 
một cái nhà trong một cuộc ly 
hôn. Điều này quan trọng lắm 
chứ. Suốt cuộc đời chắc gì 
người ta tạo dựng được một 
cái nhà trong thành phố đất 
chật người đông đó. Còn tôi, tôi 
nào tìm một chỗ trú thân. Tôi 
tìm một con người kia mà, một 
con người rất thật… 
Tôi cắn môi ngó ra cửa sổ. Sau 
vườn, bên bụi chuối đong đưa 
tàu lá, vạt hoa mười giờ nở 
bung hết cánh đỏ rực lên đằm 
thắm nồng nàn. Sợi dây thép 
căng ngang đang trĩu áo quần 
mới giặt xong nước còn nhỏ 
giọt. Trầm Mi tóc cột cao, vẩy 
vẩy bàn tay cho ráo nước ngó 
vào bắt gặp cái nhìn của tôi: 
_ Chắc dì bắt đầu chán Huế rồi. 
Điện thọai cứ gọi dì liên tục. 
Đáp lời Trầm Mi, tiếng chuông 
lại reo. Tôi nhắc máy. Tiếng 
Thanh ở đầu kia vui vẻ: 
_ Mày đấy hả Thư? Tao tưởng 
mày chết tiệt ở xó xỉnh nào rồi 
chứ. 
_ Không, tao vẫn sống để 
phụng sự mày. 
_ Ai phụng sự ai? Tao đang ì ạch 
gánh giùm mày lớp học ở nhà. 
Lớp buổi tối phải năn nỉ tụi con 
Lan, con Thương giúp giùm. 
Mày vào gấp vì tụi tao ỏai quá 
rồi. 
_ Được rồi, chiều nay tao trình 
diện mày. 
_ Hả? Chiều nay hả? Bay chuyến 
nào? 
_ Chuyến bốn rưỡi. Sáu giờ có 
mặt ở Tân Sơn Nhất. 
_ Vậy hả? Tao sẽ đi đón mày. 
Biết không, cái shop ở Nguyễn 
Trãi mới ra mấy kiểu đầm lịch 
sự lắm. Vào mà chọn với tao. 
Còn chuyện này mữa, tao mới 
khám phá ra một quán bò tùng 
xẻo… 
_ Điện thọai đường dài đấy. Cúp 
đi. Tốn tiền lắm. 
_ Mày để tao nói cho đã ghiền. 
Không có mày tao thiếu đủ thứ. 
Buổi tối dạy xong cô đơn đi ăn 
phở, cô đơn chạy xe một mình, 
cô đơn xách cassette băng qua 
cái sân mênh mông trống trải. 
Tao… 
_ Cuối tháng rồi. Cạn túi chưa? 
_ Mày đừng nhắc khéo tao tiền 
cước phí điện thọai. Nhằm nhò 
gì ba cái lẻ tẻ. Để cho tao nói… 
Đến đâu rồi nhỉ?... À này, tin 
động trời. Mày có nhớ thằng 
Jones không? Nó bị tóm rồi. 
_ Hả? Sao thế? Vì tội gì? Thằng 
đó đàng hòang học thức lắm 
mà. 
Tiếng Thanh đầu giây kia cười 
ngất đến sốt ruột: 
_ Mày biết ai tóm nó không? 
Con Hồng móm mày ạ. Nó tuyên 
bố rồi. Tháng sau cưới. Một dạo 
tên Jones lẻo đẻo bám váy mày 
tao đã bảo mày chỉ cần quay 
người lại là tóm gọn. Mà này, 
chiều nay đến Tân Sơn Nhất có 
đụng phải “cái đuôi” của mày 
không? 
_ Không, tao không báo ngày 
vào. 
_ Mày không thích hắn thì cắt 
đi. Sao lại để lòng thòng thế? 
_ Không cần thiết. Cứ để từ từ 
rối sẽ rụng. 
_ Ha, mày làm tao nghĩ đến con 
nòng nọc. Thế là chiều nay chỉ 
có tao với mày thôi phải 
không? Bye-bye nhé! Sáu giờ 
nhé! OK? 
_ OK. 
Tôi gác máy. Tiếng nói đầu giây 
kia đã dứt nhưng còn âm vang 
mãi trong tôi. Một khỏang trời 
khác, một mảnh đời khác và 
giọng nói tiếng cười của tôi 
cũng khác. Những mối dây ràng 
buộc vào nhau vừa thân thiết 
vừa ngột ngạt. Cứ thế, cuộc 
sống lăn đi… 
Aên với chị Trầm một bữa cơm 
cuối cùng tôi xách hành lý ra đi 
khi mặt trời mùa hạ chói chang 
đổ lửa. Xe tôi ngang qua Đồng 
Khánh, ngôi trường mơ ước của 
tôi cửa khép im lìm; ngôi 
trường mà tôi chưa hề có diễm 
phúc chạm tay vào một thân 
cây, một ô cửa lớp. Có lẽ trong 
vuông sân rợp bóng mát kia có 
rất nhiều chim sẻ. Thôi thì cứ 
để chúng thay tôi bay nhảy, ríu 
rít, đùa vui. Xe chạy dọc theo 
bờ sông cỏ mượt. Nước vẫn 
xanh, xanh đến nao lòng. Xe đi 
qua ruộng đồng, bờ bải, lũy tre, 
mái đình… Lại thêm một lần tôi 
rời bỏ Huế, thêm một lần tôi làm 
kẻ ra đi. 
Gởi xong hành lý, tôi tựa người 
vào tường ngó mông lung ra 
cửa. Sân bay Phú Bài bát ngát 
chói chang. Bờ mi tôi trĩu 
xuống. Đêm rồi, lại thêm một 
đêm mất ngủ. Mà cũng là một 
đêm trăng. Cánh cửa sổ mở 
tung ra khu vườn ngan ngát 
hương hoa. Aùnh trăng tràn 
vào đầm đìa trên gối. Đêm cuối 
cùng tôi thức cùng Huế, thức 
cùng ký ức, thức cùng sắc vàng 
bàng bạc trăng khuya. Mảnh 
đất này đã giữ hết của tôi ước 
mơ, hạnh phúc, níu giữ tất cả 
những gì bấy nay tôi khao khát 
đi tìm để rồi hóa thân thành 
những vần thơ khắc khỏai , 
những vần thơ ray rứt cồn cào 
tận đáy tim tôi. Aùnh trăng 
mơn man trên đôi cánh tay 
trần. Vẫn vầng trăng xưa cũ 
nhưng tôi thì đã khác xưa. 
Mười lăm tuổi, trước một 
chuyến đi, tôi đã thức trắng 
đêm để tự dỗ dành mình rằng 
sẽ quên đi, quên đi rất dễ, rằng 
tất cả chỉ mới bắt đầu, tất cả 
còn là phía trước. Những gì của 
chị Trầm vẫn là của chị Trầm. Tôi 
sẽ tìm cho tôi những gì thuộc 
về tôi để chăm chút như chị 
ngồi vo tròn hạnh phúc. Hơn hai 
chục năm sau, giờ đây tôi lại 
thấy mình bơ vơ trơ trọi dưới 
ánh trăng. Những gì của chị vẫn 
thuộc về chị. Còn tôi, trước 
hạnh phúc tôi vẫn là con bé con 
vụng về ngờ nghệch trong 
chiếc nón lá to quá khổ như 
một cái nấm biết đi. Tôi miệt 
mài mơ ước, miệt mài tìm đến 
hụt hơi những gì giống như chị 
có mà không hay những gì 
trong tay chị là duy nhất, không 
hề có một phiên bản thứ hai. Chỉ 
có tôi, tôi trở thành một phiên 
bản vụng về thô ráp của chị. Mà 
đau đớn thay, lại là một phiên 
bản có linh hồn. Thời gian qua… 
tôi nhìn lại tôi, lớp sơn màu trôi 
tuột đi, loang lỗ… Aùnh trăng 
ngòai kia cứ ngời lên sắc màu 
huyền họăc. Đêm đã khuya quá 
rồi. Tôi vịn tay vào song cửa. 
Lẫn vào bóng lá lung linh một 
bóng đen bất động bên hè nhà 
tựa cột ngó mông lung. Tôi 
nhòai người ra. Bóng đen lẫn 
vào trong biến mất. Ai đấy? Chị 
Trầm chăng? Tôi mở cửa bước 
ra. Đêm vắng lặng. Bãng lãng 
quanh đây gió phả mùi thuốc lá 
cay cay. Tựa vào cánh cửa sơn 
nâu, tôi úp mặt vào đôi tay. Vẫn 
chỉ là tấm cửa gỗ mỏng manh 
ngày đó. Cảm ơn một người đã 
cùng thức với tôi trong đêm 
trăng huyền hoặc này. Một 
chiều xa xưa tôi cũng ngồi một 
mình bên thềm đá… Vâng, tôi 
hiểu, hiểu từ khi vừa tròn mười 
lăm tuổi, cuộc đời này có những 
nỗi đau không thể nào chia xẻ 
được… 
Hơn hai mươi năm rồi… Trầm Mi 
đang ở vào tuổi tôi hồi đó. Cô 
bé có như tôi, yêu lòai chim sẻ, 
cónhư tôi, chiều chiều thả bộ 
trên đường phượng bay, có 
như tôi, ra bờ sông ngó mãi 
những con đò xuôi ngược… Và 
cô bé thân yêu của tôi, đã bao 
giờ thao thức đến trắng đêm?... 
Tôi cắn môi, nghe một giọt 
nước mắt ứa trên rèm mi nóng 
hổi. Bất giác tôi lùa năm ngón 
tay vào mái tóc rối bời rồi bỗng 
giật mình ngơ ngác. Như người 
mộng du, tôi tìm phòng điện 
thọai nhấn vào những con số 
thân quen. Một giọng nói trong 
veo ở đầu giây kia. Tôi im lặng, 
tưởng tượng ra ngôi nhà cổ im 
lìm với khu vườn rợp mát, 
tưởng tượng ra tiếng gió lao 
xao và bầy chim lích chích đáp 
xuống bay lên. Tiếng “allo” nhắc 
lại một lần nữa. Tôi thấy chiếc 
ống nghe run lên trong lòng 
tay, giọng tôi nghẹn lại: 
_ Trầm Mi ơi! Dì có để quên một 
giải lụa buộc tóc phía trên đầu 
giường. Con giữ giùm dì, Mi 
nhé! 
Một tiếng “dạ” rất khẽ tưởng 
như tan vào trong gió nắng. Tôi 
cúp máy lặng người đi. Tiếng cô 
xướng ngôn viên cất lên gióng 
giả báo giờ bay. Tôi tiến về cửa 
ra phi trường. Nắng chói chang. 
Bốn bề bát ngát. Đường băng 
kéo dài tít tắp. Con chim sắt 
khổng lồ đang chờ tôi ở đo. Tôi 
sẽ đáp xuống Tân Sơn Nhất lúc 
sáu giờ, khi thành phố lên đèn. 
Tôi sẽ ngồi sau lưng Thanh ôm 
quàng lấy nó thân thiết. Nắng 
phản chiếu trên đôi cánh máy 
bay làm chói mắt tôi. Đôi cánh 
chông chênh này sẽ đưa tôi đi, 
lạnh lùng băng mình về phía 
trước, bỏ lại sau lưng một vầng 
trăng… vầng trăng xa khuất